Sau khi sinh, cơ thể của phụ nữ sẽ bắt đầu một quá trình mới và trải qua nhiều thay đổi. Nếu như mẹ không cho bé bú, năng lượng hay số lượng thức ăn sẽ gần như giống như trước khi mang thai. Còn nếu như mẹ cho con bú thì chế độ dinh dưỡng tốt là chế độ giúp mẹ có năng lượng và chất dinh dưỡng đầy đủ giúp hồi phục sức khỏe mẹ, giúp lấy lại lượng máu mất sau sinh, giúp đủ sữa cho bé bú, nhưng không làm tăng cân mẹ quá mức. Vì vậy sau sinh và trong thời gian cho con bú, mẹ nên ăn đầy đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng, nếu như kiêng khem quá mức sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của cả mẹ lẫn bé yêu.
Mẹ nên ăn đủ 4 nhóm thức ăn, nhưng lưu ý có sự khác biệt về nhu cầu của một số chất như sau:
- Vitamin A: rất cần thiết cho sự phát triển bình thường và giúp bé chống lại nhiễm trùng. Các mẹ cho con bú cần trung bình 800 mg đến 1100 mg vitamin A mỗi ngày, hoặc nhiều hơn. Nguồn cung cấp vitamin A là sữa, phô mai, trứng, các loại cá béo, rau quả màu vàng cam như bí ngô, xoài, mơ, các loại rau như cà rốt, rau bina và bông cải xanh…
- Vitamin B1 (Thiamin): là loại vitamin B tổng hợp tan trong nước liên quan tới việc giải phóng năng lượng khỏi tế bào. Nhu cầu hàng ngày là 1.1 mg. Trong thời gian mang thai và cho bú, nhu cầu tăng lên 1.5 mg/ngày. Vitamin B1 có trong các loại men, thịt, sữa, ngũ cốc toàn phần, lòng đỏ trứng, trái cây khô, trái cây có dầu, và hạt thô…
- Vitamin B2 (Riboflavin): là loại vitamin B tổng hợp hoà tan trong nước, cũng liên quan tới việc giải phóng năng lượng từ tế bào. Nhu cầu hàng ngày cần 1.3 mg. Nhu cầu trong giai đoạn mang thai tăng tới 1.6mg/ngày, và giai đoạn cho bú lên tới 1.8mg/ngày. Nguồn vitamin B2 bao gồm rau xanh, sữa, trứng, pho mát, và cá…
- Vitamin B6: giúp bé chuyển hóa protein và hình thành các tế bào máu mới. Các mẹ cho con bú cần trung bình 1.7mg đến 2mg vitamin B6 mỗi ngày hoặc nhiều hơn. Nguồn cung cấp vitamin B6 bao gồm các loại men, ngũ cốc toàn phần, gan,thịt cơ bắp, cá,…
- Folate: là một vitamin thuộc nhóm B, cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển khỏe mạnh. Tính trung bình, các bà mẹ cho con bú cần 450μg (microgram) đến 500μg folate mỗi ngày hoặc nhiều hơn. Nguồn cung cấp folate bao gồm các loại rau lá, ngũ cốc, đậu, trái bơ….
- Vitamin C: Vitamin C tan trong nước và có nhiều chức năng bao gồm giảm các gốc tự do và hỗ trợ việc hình thành procollagen. Nhu cầu hàng ngày là 60mg, trong giai đoạn cho bú là 95mg/ngày. Vitamin C có trong hoa quả và rau tươi. Thiếu vitamin C mãn tính sẽ ảnh hưởng tới quá trình tổng hợp collagen và dẫn tới bệnh sco-bút.
- Can-xi: Nhu cầu calci của phụ nữ mang thai 6 tháng cuối và cho con bú 6 tháng đầu là 1000mg/ngày. Can-xi có nhiều trong thịt cá, trứng sữa, trong những thực vật họ lá xanh như cải xoăn, củ cải, mù tạt. Vitamin D rất cần thiết cho quá trình hấp thụ can xi.
- Sắt: Nhu cầu sắt của phụ nữ trong thời gian cho con bú thấp hơn so với thời kỳ mang thai. Theo bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt nam, nhu cầu sắt của phụ nữ cho con bú 6 tháng đầu là 24mg/ngày. Sắt có nhiều trong một số thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa, đậu lăng, đậu hà lan, lòng đỏ trứng, ca cao, rau có màu sắc đậm…
- Iốt: là một khoáng chất thiết yếu cần thiết cho việc sản xuất các hormone tuyến giáp, và để đảm bảo não của em bé và hệ thần kinh phát triển tốt. Các mẹ cho con bú cần trung bình mỗi ngày là 190μg đến 270μg i-ốt. Nguồn cung cấp iốt bao gồm hải sản, sữa, rong biển…
- Kẽm: là thành phần quan trọng cho sự phát triển các tế bào của em bé và hệ thống miễn dịch. Các mẹ cho con bú cần trung bình mỗi ngày 10mg đến 12mg kẽm, hoặc nhiều hơn. Nguồn cung cấp kẽm bao gồm ngũ cốc nguyên hạt, sữa, hải sản, các loại đậu…
Khi sản xuất ra sữa sẽ làm tăng nhu cầu năng lượng của mẹ. Năng lượng cần thiết bổ sung cho phụ nữ cho con bú tương đương với năng lượng để người mẹ tiết ra sữa. Số lượng sữa trung bình một ngày mẹ cho con bú là 750-850ml, tương đương với 67kcal/100ml, tính ra là 502 đến 570kcal/ngày. Hiệu quả tổng hợp sữa ở cơ thể người mẹ là 90%, điều đó có nghĩa là năng lượng cần tăng thêm 550 đến 625kcal/ ngày,vào khoảng 2.800 kcal/ngày so với nhu cầu khi người mẹ không cho con bú. Những con số này được dựa trên bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tiên, sau thời gian đó có thể mẹ sẽ cần ít năng lượng hơn khi chỉ còn cho bé bú một phần.